Bước vào năm 2010, năm bản lề chuẩn bị cho sự chuyển đổi triển khai Chiến lược Dân số và Sức khoẻ sinh sản giai đoạn 2011-2020. Trong giai đoạn này chiến lược dân số sẽ chuyển từ mục tiêu giảm sinh sang các mục tiêu toàn diện về cả qui mô, cơ cấu, phân bổ và nâng cao chất lượng dân số. Nâng cao chất lượng dân số Việt Nam là lĩnh vực rộng lớn, đòi hỏi sự phối hợp toàn diện của nhiều lĩnh vực kinh tế-xã hội, do vậy cần lựa chọn những mục tiêu ưu tiên, trước mắt tập trung vào một số nhóm dân cư bị thiệt thòi (yếm thế). Một trong những nhóm ưu tiên là người khuyết tật, vừa qua Quốc Hội đã xem xét dự thảo Luật người khuyết tật Việt Nam để tiến tới phê chuẩn, thể hiện tính ưu việt của xã hội.
I. THỰC TRẠNG VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT
Hiện nay ước tính cả nước có khoảng 5,1 triệu người khuyết tật, chiếm khoảng 6% dân số, trong đó có 1,1 triệu khuyết tật nặng, chiếm 21,5% tổng số người khuyết tật. Bao gồm 29% khuyết tật vận động, 17% tâm thần, 14% tật thị giác, 9% tật thính giác, 7% tật ngôn ngữ, 7% trí tuệ và 17% các dạng tật khác. Tỷ lệ nam là người khuyết tật cao hơn nữ do các nguyên nhân hậu quả chiến tranh, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, tai nạn thương tích...
Nguyên nhân gây nên khuyết tật có tới 36% bẩm sinh, 32% do bệnh tật, 26% do hậu quả chiến tranh và 6% do tai nạn lao động. Dự báo trong nhiều năm tới số lượng người khuyết tật ở Việt Nam chưa giảm do tác động của ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng của chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam, tai nạn giao thông và tai nạn lao động, hậu quả thiên tai…
Đời sống vật chất, tinh thần của người khuyết tật còn nhiều khó khăn. Có tới 80% người khuyết tật ở thành thị và 70% người khuyết tật ở nông thôn sống dựa vào gia đình, người thân và trợ cấp xã hội; 32,5% thuộc diện nghèo (cao gấp hai lần so với tỷ lệ nghèo chung cùng thời điểm), 24% ở nhà tạm. Những khó khăn này cản trở người khuyết tật tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, học nghề, tìm kiếm việc làm, tham gia giao thông, dẫn đến khó khăn trong cuộc sống và hoà nhập với cộng đồng.
Công tác tuyên truyền phổ biến Pháp lệnh và chính sách liên quan đến người khuyết tật cũng còn hạn chế. Theo đánh giá của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội năm 2008, mới chỉ có 22,9% người biết Pháp lệnh về người khuyết tật, còn tới 77,1% số người không biết. Trong số biết chỉ có 6,4% biết rõ, 16,5% mới chỉ nghe và biết tên. Hiểu biết ít nên các hoạt động chăm sóc, hỗ trợ người khuyết tật ở cộng đồng chưa được thực hiện tốt. Người khuyết tật thường tự ti trong cuộc sống, chưa thấy được quyền và trách nhiệm của mình.
II. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHĂM SÓC NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1. Chăm sóc đời sống người khuyết tật
Thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật, Chính phủ đã quy định chi tiết chính sách trợ giúp xã hội đối với người tàn tật nặng không có nguồn thu nhập và không nơi nương tựa, người mắc bệnh tâm thần mãn tính, hộ gia đình có từ hai người tàn tật nặng không có khả năng tự phục vụ. Thực hiện chính sách này đến năm 2008, các địa phương đã thực hiện trợ cấp xã hội hàng tháng cho 395.962 người khuyết tật nghèo và 8.599 hộ có từ hai người khuyết tật, nuôi dưỡng tập trung 9.798 người khuyết tật trong 300 cơ sở bảo trợ xã hội. So với năm 1998, số người người khuyết tật được hưởng các chính sách trợ giúp xã hội tăng gấp 4 lần. Các chế độ trợ giúp cũng đã được điều chỉnh tăng từ 45.000 đồng/tháng năm 2000 lên 65.000 đồng/tháng năm 2004 và 120.000đồng/tháng năm 2007. Chính sách trợ giúp xã hội đã đã góp phần quan trọng trong việc ổn định đời sống vật chất và tinh thần của người khuyết tật.
Ngoài ra còn có 622.783 người khuyết tật là thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh, quân nhân bị tai nạn lao động, quân nhân bị bệnh nghề nghiệp, 133.356 người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị hậu quả chất độc hóa học và khoảng 4.700 gia đình người có công với cách mạng đang hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng theo quy định của Pháp lệnh người có công với cách mạng 30.869 người hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hàng tháng.
Tuy vậy, còn một bộ phận người khuyết tật nặng chưa được hưởng chính sách trợ giúp xã hội do quy định của Pháp lệnh là đối tượng thuộc diện hưởng chính sách phải là người khuyết tật nặng không có nguồn thu nhập và không nơi nương tựa; mức trợ cấp xã hội hàng tháng còn quá thấp so với mặt bằng mức sống dân cư (mới chỉ bằng 60% chuẩn nghèo), chưa bảo đảm được những nhu cầu sống tối thiểu của người khuyết tật.
2. Chăm sóc sức khỏe, chỉnh hình, phục hồi chức năng
Theo báo cáo đến nay các địa phương đã cấp thẻ bảo hiểm y tế cho 100% người khuyết tật thuộc hộ gia đình nghèo, thực hiện chỉnh hình phục hồi chức năng và cấp dụng cụ chỉnh hình miễn phí cho khoảng 300 ngàn người khuyết tật; cung cấp phương tiện trợ giúp như xe lăn, xe đẩy, chân tay giả cho trên 100 ngàn người; phẫu thuật chỉnh hình và trợ giúp phục hồi chức năng cho hàng trăm ngàn trẻ em khuyết tật. Mạng lưới phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng đã được phát triển ở 46/63 tỉnh, thành phố với 215 huyện, trên 2.420 xã... Theo đánh giá của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội năm 2008 có 52,4% người khuyết tật đi khám bệnh, phục hồi chức năng nhận được sự hỗ trợ về kinh phí (giảm viện phí).
Tuy nhiên, người khuyết tật vẫn khó khăn trong tiếp cận với các dịch vụ y tế, nhất là người khuyết tật ở vùng sâu, vùng xa khó khăn, điều kiện đi lại không thuận tiện. Nhiều địa phương do điều kiện khó khăn nên công tác chăm sóc sức khỏe tại cộng đồng chưa được quan tâm thực hiện.
3. Học văn hoá đối với người khuyết tật
Thực hiện Luật giáo dục, Pháp lệnh về người tàn tật, Chính phủ, các bộ ngành, địa phương đã có nhiều quan tâm tạo điều kiện để người khuyết tật tiếp cận dịch vụ giáo dục. Số lượng học sinh, sinh viên là người tàn tật tăng nhanh: Năm học 1996-1997 cả nước có 6.000 trẻ khuyết tật học trong 72 cơ sở giáo dục chuyên biệt, 36.000 trẻ khuyết tật học trong 900 trường phổ thông đến năm học 2005-2006 có 230.000 trẻ khuyết tật đi học trong 9.000 trường phổ thông (đạt 25%). Người khuyết tật đi học không chỉ tập trung ở bậc mầm non, tiểu học mà còn ở bậc trung học và một số đang học ở bậc trung cấp, cao đẳng, có nhiều học sinh khuyết tật đã đạt kết quả cao.
Công tác đào tạo nguồn lực cho giáo dục khuyết tật ngày càng được quan tâm đến nay các trường đại học, cao đẳng sư phạm đã có các khoa đào tạo, giáo dục đặc biệt. Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với các Bộ liên quan đã ban hành mã ngành đào tạo giáo dục trẻ em khuyết tật, giáo dục đặc biệt. Có 264 cán bộ quản lý giáo dục của 63 tỉnh, thành phố và giảng viên của các trường đại học và cao đẳng sư phạm trong cả nước đã được bồi dưỡng về giáo dục trẻ khuyết tật, gần 700 giáo viên trung học được đào tạo trình độ chuyên môn về giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật tại 07 trường cao đẳng sư phạm, hơn 10.000 giáo viên mầm non và trung học được bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng dạy học trẻ khuyết tật, mạng lưới giáo viên cốt cán của các huyện được hình thành để đáp ứng nhu cầu đi học của gần 230.000 trẻ khuyết tật.
Tuy nhiên, vẫn còn phần lớn trẻ em khuyết tật chưa tiếp cận được với dịch vụ giáo dục, nhất là ở nông thôn. Theo kết quả đánh giá của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội năm 2008, mới chỉ có 36,8% người khuyết tật đã từng đi học tại các trường tiểu học hoặc phổ thông. Nguyên nhân chính là do điều kiện kinh tế khó khăn, nhận thức của gia đình và cộng đồng, cơ sở vật chất giáo dục chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận...
4. Học nghề và tạo việc làm của người khuyết tật
a) Học nghề của người khuyết tật
Kể từ khi có Pháp lệnh đến nay, số lượng người khuyết tật được học nghề ngày càng tăng: giai đoạn 1999 - 2004 có gần 19.000 người; giai đoạn 2005-2008 mỗi năm có khoảng 8.000 người, gấp 2 lần so với giai đoạn trước (riêng năm 2008 có 8.712 người khuyết tật được học nghề). Hiện tại trong cả nước có 260 cơ sở dạy nghề đóng trên địa bàn 56 tỉnh, thành phố, trong đó 55 cơ sở chuyên biệt và 205 cơ sở có tham gia dạy nghề cho người khuyết tật. Trong những năm qua nhà nước đã dành hàng trăm tỷ đồng kinh phí từ Chương trình mục tiêu Quốc gia về giáo dục và đào tạo để đầu tư xây dựng cơ sở, hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho người khuyết tật (2005: 11,5 tỷ; 2006: 20tỷ; 2007: 156 tỷ; 2008: 165 tỷ và 2009: 183 tỷ (bao gồm 2 đối tượng nông dân và người khuyết tật).
Hệ thống tổ chức quản lý Nhà nước về dạy nghề từ Trung ương đến địa phương đã được kiện toàn một bước, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về dạy nghề cũng đã quy định: các cơ sở dạy nghề dành riêng cho người khuyết tật được ưu tiên cấp địa điểm thuận lợi, hỗ trợ vốn, cấp kinh phí đào tạo, miễn giảm thuế, được vay vốn với lãi xuất ưu đãi; các cơ sở dạy nghề khác nhận người khuyết tật vào học nghề, nâng cao trình độ tay nghề được ưu tiên đầu tư, bảo đảm định mức kinh phí đào tạo. Người khuyết tật học nghề được xem xét cấp học bổng và trợ cấp xã hội, được miễn hoặc giảm học phí căn cứ mức độ khuyết tật và mức độ suy giảm khả năng lao động.
Đánh giá của Uỷ ban các vấn đề xã hội của Quốc hội năm 2008 cho thấy tỷ lệ người khuyết tật được học nghề còn thấp chiếm 12,1%.
b) Việc làm của người khuyết tật
Theo khảo sát năm 2008, có trên 50% người khuyết tật trong độ tuổi lao động có việc làm, trong đó chủ yếu làm việc trong khu vực nông nghiệp (trên 70%). Thực hiện các chính sách giải pháp tạo việc làm người khuyết tật, cả nước có hơn 400 cơ sở sản xuất, kinh doanh của thương binh và người khuyết tật, tạo việc làm ổn định cho 15.000 lao động là người khuyết tật, khoảng 65% số hộ có người khuyết tật được hưởng các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, như: miễn giảm thuế, hỗ trợ tín dụng ưu đãi, hỗ trợ đất sản xuất... Tuy nhiên, phần lớn những người khuyết tật có việc làm không ổn định, chủ yếu là tự tạo việc làm, làm việc trong các tổ chức, cơ sở mang tính nhân đạo từ thiện. Rất ít người tìm được việc làm và làm việc ổn định trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
Pháp luật lao động quy định các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải nhận từ 2-3% lao động là người tàn tật vào làm việc tuỳ theo loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp không nhận đủ tỷ lệ lao động là người tàn tật theo quy định phải đóng một khoản tiền vào Quỹ việc làm cho người tàn tật. Hầu hết các doanh nghiệp không thực hiện được quy định này. Nguyên nhân là do công tác tuyên truyền phổ biến, kiểm tra giám sát chưa được quan tâm thực hiện. Mặt khác bản thân người khuyết tật chưa đáp ứng được yêu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp, đồng thời do tính chất sản xuất, kinh doanh các doanh nghiệp cũng khó khăn trong việc bố trí việc làm phù hợp với sức khoẻ, đặc điểm của người khuyết tật, nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề đặc thù như luyện kim, hoá chất, địa chất, đo đạc bản đồ, dầu khí, khai thác mỏ, khai thác khoáng sản, xây dựng cơ bản, vận tải...
5. Tiếp cận văn hóa, thể thao và công trình công cộng
a) Về văn hóa, thể thao
Trong những năm qua nhiều hoạt động văn hóa, thể thao đã được tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Các hoạt động văn hoá, thể thao, giải trí của người khuyết tật ngày càng được quan tâm, nhiều cuộc thi đấu thể thao được tổ chức để người khuyết tật được tham gia hoạt động góp phần tăng cường sức khỏe, cải thiện đời sống tinh thần người khuyết tật xóa bỏ mặc cảm. Tham gia hoạt động thể dục thể thao giúp người khuyết tật hòa nhập cộng đồng.
Từ năm 1997 cứ 5 năm một lần tổ chức Hội thi Thể thao-Văn nghệ người khuyết tật toàn quốc, thu hút rất đông vận động viên trên khắp mọi miền tổ quốc về tham dự. Phong trào thể dục thể thao dành cho người khuyết tật tại các địa phương trong những năm qua đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng người tập cũng như về số môn thể thao được đưa vào hoạt động, từ chỗ chỉ có từ 10-15 tỉnh thành có phong trào TDTT của người khuyết tật đến nay trong cả nước đã có hơn 40 đơn vị tỉnh thành có phong trào, thậm chí có những tỉnh đã có phong trào phát triển ở cấp quận, huyện (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Quảng Trị). Đến nay cả nước đã có 35/63 tỉnh, thành phố thành lập câu lạc bộ TDTT cho người khuyết tật tham gia tập luyện. Tuy nhiên, phong trào văn hóa, thể thao của người khuyết tật mới chỉ phát triển bước đầu và chủ yếu ở khu vực thành thị, còn khu vực nông thôn, miền núi chưa được quan tâm đúng mức.
b) Tiếp cận công trình công cộng
Thực hiện quy định pháp luật, trong những năm qua các Bộ, ngành địa phương đã có cố gắng trong việc bảo đảm điều kiện tiếp cận công trình công cộng đối với người khuyết tật, như: ban hành quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng công trình công cộng bảo đảm cho người khuyết tật tiếp cận; cải tạo, sửa chữa các công trình công cộng chưa bảo đảm điều kiện tiếp cận... Tuy nhiên, số lượng các công trình hạ tầng cơ sở bảo đảm điều kiện tiếp cận cho người khuyết tật còn rất ít. Nhất là việc tiếp cận các công trình giao thông, cơ quan hành chính nhà nước, bệnh viện, trường học... Nguyên nhân chính là do nhận thức và quan tâm của xã hội đối với người khuyết tật còn hạn chế, do thiếu nguồn lực để đầu tư, cải tạo sửa chữa các công trình, thiếu chế tài xử phạt và sự giám sát của các cơ quan thực thi pháp luật.
Đánh giá chung
Chính sách chế độ hỗ trợ người khuyết tật ban hành trong 10 năm qua đã tạo khung pháp lý về chăm sóc người khuyết tật, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng từ Trung ương đến cơ sở cũng như tạo môi trường thuận lợi cho người khuyết tật tiếp cận học nghề, việc làm và các dịch vụ xã hội cơ bản. Nhờ vậy, những năm qua đời sống vật chất, tinh thần và vị thế của người khuyết tật trong xã hội được cải thiện một bước. Tuy nhiên quá trình thực hiện cho thấy hệ thống các văn bản chưa thật sự đồng bộ, tính khả thi của một số chính sách chưa cao, công tác tuyên truyền, kiểm tra giám sát thực hiện chưa thường xuyên, nguồn lực về tài chính và nhân lực cũng chưa đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn.
Đâu là bài viết của TS Nguyễn Quốc Anh, Giám đốc Trung tâm Thông tin và Tư liệu Dân số. Bài viết được đăng trên bản tin Dân số và Phát triển, số 1 (106) năm 2010.
0 Comments