Bài viết "Việc làm cho người khuyết tật: Một số cách tiếp cận*" được đăng trên Kỷ yếu hội thảo về Việc làm cho người khuyết tật được tổ chức tại Đại học Văn Lang, TP Hồ Chí Minh, 30/8/2011. Xin trân trọng giới thiệu.
Theo ước tính của Liên hợp quốc, hiện có khoảng 10% dân số thế giới là người khuyết tật, đa phần trong số đó trong độ tuổi lao động (The United Nations 2008; The United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific 2010). Nhóm dân số này đang phải đối mặt với nhiều vấn đề khác nhau trong cuộc sống, từ việc đối mặt với những rào cản về mặt nhận thức, đến những rào cản về cơ sở hạ tầng và cơ hội để phát triển (International Labour Organisation 2006; World Health Organisation & The World Bank 2011).
Việc làm cho người khuyết tật là một nội dung cơ bản được các văn bản quy phạm pháp luật đề cập cũng như là chủ đề của nhiều chương trình xã hội. Quyền được làm việc và tạo cơ hội được làm việc của người khuyết tật trở thành một vấn đề quan trọng và được coi là chìa khóa để giúp người khuyết tật tự thay đổi cuộc sống của bản thân (The United Nations 2006).
Sự tham gia của người khuyết tật vào lực lượng lao động là một hình thức thể hiện sự hòa nhập xã hội của họ với xã hội. Đồng thời, đây cũng là cách làm tối đa hóa nguồn nhân lực của xã hội (điều này làm tăng điều kiện sống của người khuyết tật cũng như đóng góp vào điều kiện chung của xã hội); thúc đẩy giá trị của con người và sự cố kết xã hội (cùng với vấn đề tạo nguồn thu nhập, người lao động còn có cơ hội được nhìn nhận ra giá trị của bản thân, cũng như tự chọn lựa được định hướng sống, phát triển được khả năng, năng lực bản thân); và cũng với sự tăng dân số nói chung người khuyết tật trong độ tuổi lao động cũng ngày một gia tăng do đó đề cập đến việc lao động cho người khuyết tật là hết sức cần thiết.
Nghiên cứu về vấn đề việc làm cho người khuyết tật hiện đang được thực hiện ở nhiều cách tiếp cận: từ khía cạnh kinh tế đến vấn đề nhân quyền, từ vấn đề chính sách đến dịch vụ xã hội, từ việc đào tạo đến việc tạo cơ hội việc làm…(International Labour Organisation 2006; World Health Organisation & The World Bank 2011). Các nghiên cứu đã tạo được nhiều định hướng mang tính gợi mở và tạo dựng được những đề xuất về mặt chính sách và chương trình hành động nhằm thay đổi cuộc sống của người khuyết tật hiện nay.
Là một quốc gia đang phát triển cùng với những định hướng phát triển bền vững, vấn đề khuyết tật-người khuyết tật nói chung và vấn đề việc làm cho người khuyết tật nói riêng ngày càng được quan tâm ở Việt Nam, nhất là đầu thập kỷ này khi Công ước Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật và Luật về người khuyết tật của Việt Nam ra đời (Vietnam National Assembly 2010). Mặc dù từ góc độ chính sách xã hội đã tạo dựng được định hướng cởi mở cho vấn đề cuộc sống của người khuyết tật, tuy nhiên cuộc sống thực tại của người khuyết tật vẫn chưa có nhiều biến đổi và còn nhiều hạn chế, họ vẫn đang gặp nhiều trở ngại về tiếp cận Luật và các văn bản chính sách, cơ hội đào tạo nghề và thị trường việc làm (Le Bach Duong, Khuat Thu Hong & Nguyen Duc Vinh 2008; Bộ Lao động Thương binh và Xã hội 2009).
Bài viết này tập trung nhìn nhận vấn đề việc làm khuyết tật trên góc độ cách tiếp cận về quyền và dịch vụ hiện đang được áp dụng ở nhiều quốc gia và hướng đến đề ra một số đề xuất về vấn đề việc làm cho người khuyết tật hiện nay ở Việt Nam.
Các cách tiếp cận về vấn đề việc làm cho người khuyết tật
Ở các quốc gia công nghiệp, cuối thế kỷ trước, vấn đề việc làm cho người khuyết tật được hiểu và nhìn nhận nhiều từ góc độ phúc lợi từ thiện (Goss, Goss & Adam-Smith 2000, p.807). Trong nhìn nhận khía cạnh này, khuyết tật được hiểu dựa trên hai mô hình: y học và thảm kịch (Duckworth, Freeney & Parkinson 1996). Mô hình đầu nhấm mạnh vấn đề khuyết tật là do vấn đề bệnh tật của cá nhân và điều này đôi khi được điều chỉnh thông qua sự can thiệp y tế và chữa trị. Qua đó, từ quan điểm này người khuyết tật luôn được nhìn nhận là có vai trò phụ thuộc và thiếu hụt khả năng về thể chất và tinh thần. Mô hình sau đề cập đến những quan điểm đối lập lại khi cho rằng một người bị khuyết tật thì đáng được thông cảm do đó cách tốt nhất để mọi người giúp đỡ người khuyết tật chính là việc quyên góp từ thiện để giúp đỡ họ trong cuộc sống (Duckworth, Freeney & Parkinson 1996, tr.7). Các nhìn này cũng dẫn tới việc xem xét người khuyết tật không có khả năng tự chăm sóc cũng như tự thay đổi cuộc sống của bản thân. Cả hai mô hình này đều nhấn mạnh và quan tâm nhiều đến khía cạnh hệ quả của khuyết tật và làm tách rời họ ra khỏi xã hội.
Hai cách hiểu này về vấn đề khuyết tật đang dần được thay bởi mô hình xã hội về vấn đề khuyết tật. Quan điểm này cho rằng ngoài những điều kiện khó khăn về mặt cá nhân, người khuyết tật bị hạn chế tham gia vấn đề việc làm do chính xã hội tạo nên các rào cản như vậy từ góc độ tạo các dịch vụ về giáo dục, đào tạo nghề và tuyển dụng. Cách nhìn này mang tính cởi mở hơn về khía cạnh việc làm cho người khuyết tật ở các hai phía người khuyết tật và phía xã hội. Cách tiếp cận này đã được phát triển cùng với các quan điểm về nhân quyền, về phúc lợi xã hội và dịch vụ xã hội đang được áp dụng rộng rãi khi nghiên cứu về vấn đề người khuyết tật (Oliver 1996). Từ cách hiểu chung về vấn đề khuyết tật, hiện các nghiên cứu về việc làm cho người khuyết tật và hướng thúc đẩy hòa nhập xã hội cho người khuyết tật được nhìn nhận từ hai góc độ chủ yếu: quyền của người khuyết tật và mô hình dịch vụ về vấn đề việc làm.
Cách tiếp cận về quyền đối với vấn đề việc làm cho người khuyết tật
Một số nghiên cứu gần đây về hệ thống pháp luật cho thấy hiện đang có sự thay đổi về mặt nhận thức về việc làm và khuyết tật. Trước đây, các quan điểm cho rằng tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm của người khuyết tật có mối quan hệ chặt chẽ và trên thực tế là hậu quả không tránh khỏi của sự sút kém về tinh thần và thể chất của những người khuyết tật (mô hình nhận thức dựa trên quan điểm y tế, quan điểm cá nhân về vấn đề khuyết tật). Nhưng tới ngày nay, nhiều quan điểm cho rằng nguyên nhân chính của những của những bất lợi về góc độ việc làm của người khuyết tật đang phải đối mặt cũng như những vấn đề về sự tách biệt xã hội trong cuộc sống của người khuyết tật là do những phản ứng tiêu cực của xã hội, những rào cản về mặt nhận thức của xã hội cũng như những rào cản khó tiếp cận của cơ sở hạ tầng xã hội (mô hình xã hội về vấn đề khuyết tật). Ở một góc độ nào đó, chính sách xã hội và pháp luật xã hội đang tạo ra những rào cản như vậy. Cách tiếp cận về quyền của người khuyết tật với vấn đề việc làm nhấn mạnh nhiều đến việc thực thi các quan điểm pháp lý liên quan. Các quan điểm pháp lý này được thể hiện trong hệ thống các văn bản luật, chính sách ở cấp độ quốc tế và quốc gia. Ở cấp độ luật pháp quốc tế, Tuyên bố chung về vấn đề nhân quyền (The United Nations 1948), các chuẩn mực lao động cơ bản của Tổ chức lao động thế giới được thông qua năm 1958 và gần đây được điều chỉnh với sự phê chuẩn của 163 quốc gia thành viên của Tổ chức lao động thế giới (International Labour Organisation & Asia Development Bank 2006) và Công ước về Quyền của người khuyết tật năm 2006 (The United Nations 2006) được xem là những công cụ pháp lý quan trọng cho các quốc gia trên toàn thế giới thực hiện.
Trong khuôn khổ các hoạt động đẩy mạnh vấn đề việc làm cho người khuyết tật, Tổ chức Lao động thế giới luôn xây dựng các chiến lược nhằm đẩy mạnh sự công bằng xã hội và xây dựng các mô hình việc làm phù hợp cho người khuyết tật, điều này cũng được xem như là các khía cạnh về tiếp cận nhân quyền vì các định hướng này nhằm tạo được sự đối xử bình đẳng và tạo các cơ hội bình đẳng ở nơi làm việc, sự tự do xây dựng hội đoàn, đề cập đến các vấn đề về lao động trẻ em, sự phân biệt đối xử dựa trên vấn đề khuyết tật (International Labour Organisation 2006).
Công ước về quyền của người khuyết tật (2006) được coi là công cụ pháp lý cao nhất hiện nay đề cập đến các vấn đề chung của người khuyết tật. Ở lĩnh vực việc làm, Công ước có ghi nhận các quyền của người khuyết tật ở các khía cạnh về đào tạo nghề, cơ hội làm việc, thúc đẩy mô hình tự tạo việc làm, khả năng lựa chọn cơ hội việc làm cũng như những yêu cầu về việc tạo dựng môi trường dễ hòa nhập, không rào cản cho người lao động là khuyết tật. Đây chính là cách thức chống lại vòng đói nghèo luẩn quẩn của người khuyết tật (World Health Organisation & The World Bank 2011).
Các quốc gia khác nhau đều có hệ thống các bộ luật và các hiệp định cam kết thúc đẩy vấn đề quyền của người khuyết tật, điều quan trọng mà các nhà nghiên cứu quan tâm đó chính là các hệ thống luật này được thực hiện ra sao. Để đảm bảo việc thực hiện có hiệu quả các vấn đề về quyền của người khuyết tật trong lĩnh vực việc làm đòi hỏi sự tham gia tích cực của hệ thống quản lý nhà nước, người tuyển dụng lao động, người lao động và các tổ chức của người khuyết tật. Việc áp dụng các quyền cần dựa trên các nguyên tắc về sự phù hợp giữa quyền và trách nhiệm, do đó khi một cá nhân khuyết tật có quyền yêu cầu thì các tổ chức cũng có trách nhiệm đảm bảo thực hiện các quyền về yêu cầu đó. Đây là nguyên tắc hướng đến lượng giá được quyền nào đang tồn tại trong cuộc sống. Để xác định được các vấn đề luật pháp được thực hiện như thế nào, Tổ chức Lao động quốc tế cho rằng cần có các hoạt động giám sát và theo dõi từ chính các doanh nghiệp, cơ sở lao động. Các báo cáo đánh giá về môi trường làm việc cũng là nguồn thông tin quan trọng cho vấn đề này, ngoài ra cần xem xét các đánh giá giữa kỳ, thường xuyên, các báo cáo của các cơ quan quản lý và thậm chí nguồn thông tin phản ảnh trên báo chí (International Labour Organisation 2006, tr.15-16).
Trong việc xem xét tiếp cận lao động cho người khuyết tật ở góc độ quyền con người, năm 1997 Mạng lưới Thông tin và Nghiên cứu ứng dụng về khuyết tật toàn cầu (Thornton & Lunt 1997) đã tiến hành đánh giá chính sách ở 18 quốc gia phát triển trên thế giới để có cách nhìn chung về vấn đề tiếp cận này. Một trong những vấn đề quan trọng khác nữa khi nhìn nhận vấn đề việc làm từ góc độ quyền, đó là không phải lúc nào cũng nghĩ rằng người khuyết tật không phải là nhóm đồng nhất. Sự khác biệt giữa các cá nhân khuyết tật là rất lớn và có nhiều điều hàm chứa cho các mô hình dịch vụ và sự trợ giúp cho người khuyết tật ở nơi làm việc.
Cách tiếp cận về dịch vụ
Tạo dựng các dịch vụ về việc làm cho người khuyết tật đã được nhiều chính phủ quan tâm thực hiện, coi đó là cách thức triển khai các luật, điều luật trong cuộc sống. Dịch vụ này có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy sự hòa nhập xã hội của người khuyết tật. Tiếp cận về dịch vụ xã hội cũng là sự chuyển hướng trong các nghiên cứu về vấn đề hòa nhập của người khuyết tật từ chỗ thuần túy quan tâm đến các chính sách trợ giúp sang các chính sách nâng cao năng lực của người khuyết tật thông qua các mô hình đào tạo nghề, tạo công ăn việc làm, các dịch vụ tư vấn....
Trong các quốc gia phát triển, mô hình dịch vụ về việc làm cho người khuyết tật ở Úc được coi là những định hướng thành công đối với cuộc sống của người khuyết tật và định hướng về hòa nhập xã hội của họ. Định hướng này không chỉ giúp đỡ cá nhân người khuyết tật mà còn hướng đến giúp đỡ các doanh nghiệp có lao động là người khuyết tật. Cách tiếp cận về dịch vụ việc làm cho người khuyết tật ở Úc hướng đến tập trung vào các mục tiêu: Loại bỏ những rào cản về mặt dịch vụ cho người khuyết tật; xây dựng các hình thức trợ giúp về quyền cho những người khuyết tật vừa rời ghế nhà trường để bước chân vào thị trường lao động; tăng cường các nguồn thông tin tìm kiếm việc làm ở các vùng sâu xa; quan tâm hơn đến vấn đề giáo dục, đào tạo và phát triển các kỹ năng; tạo hệ thống phản hồi nhanh đối với các doanh nghiệp (Australian Government 2008).
Ở Úc, Bộ Giáo dục, Đào tạo, Việc làm và Thanh niên là bộ phận quan tâm nhiều đến việc đào tạo kỹ năng nghề nghiệp và đưa ra nhiều chương trình về đào tạo và bồi dưỡng kỹ năng làm việc. Các chương trình về dịch vụ việc làm cho người khuyết tật từ các hoạt động này khởi đầu từ năm 1991, cho tới nay hai lĩnh vực chính về dịch vụ việc làm cho người khuyết tật được xoay quanh các vấn đề về: (a) chương trình tiếp cận việc làm với các mô hình về Đào tạo, Khởi đầu công việc, Trợ giúp tìm kiếm việc làm; và hoạt động can thiệp; (b) Các chiến lược can thiệp dựa trên cộng đồng với mô hình chia sẻ kỹ năng (Thornton & Lunt 1997; Phillips 2008; Social Policy Research Centre 2008). Ngoài các mô hình dịch vụ chung như vậy, chính quyền Úc và các bang còn xây dựng các chương trình chuyên biệt về dịch vụ việc làm dành cho người khuyết tật ở các mô hình về phục hồi chức năng, các dịch vụ về đào tạo nghề và tìm việc làm cho người khuyết tật (các dịch vụ này nhằm gia tăng sự độc lập, khả năng làm việc và sự hội nhập cua người khuyết tật ở môi trường làm việc; các dịch vụ về đào tạo, việc làm và chuẩn bị cho quá trình làm việc; các dịch vụ trợ giúp quá trình chuyển đổi người khuyết tật từ môi trường giáo dục-học nghề-làm việc chuyên biệt sang môi trường làm việc hòa nhập). Để thực hiện được các chương trình định hướng về mặt dịch vụ này, ngoài hệ thống luật pháp đủ mạnh ở cấp quốc gia, các bang cũng có những hệ thống quy điều luật cụ thể và có được nguồn hỗ trợ tài chính tập trung và bộ máy vận hành, kiểm tra, đánh giá, phản hồi chặt chẽ. Những kết quả đạt được từ các mô hình dịch vụ này đã hướng quốc gia Úc tạo dựng được cách tiếp cận hòa nhập cho người khuyết tật ở các lĩnh vực đời sống và tạo được mô hình xã hội hòa nhập và xã hội phúc lợi cho mọi người.
Định hướng về mặt xây dựng các dịch vụ việc làm cho người khuyết tật hiện được nhiều quốc gia áp dụng và phát triển như ở Anh, Pháp, các quốc gia Bắc Âu, Canada, Mỹ… với mục tiêu nâng cao năng lực của chính người khuyết tật nhằm thay thế dần các chương trình trợ giúp, trợ cấp về mặt tài chính. Ngoài ra, các mô hình dịch vụ về tư vấn, định hướng nghề nghiệp, xây dựng mạng lưới thông tin việc làm nghề nghiệp cho người khuyết tật cũng được hình thành nhằm tạo ra các hoạt động trợ giúp mang tính một tiến trình và bền vững hơn là thuần túy tạo việc làm đơn thuần.
Một số vấn đề đặt ra đối với Việc làm cho người khuyết tật ở Việt Nam
Kết quả cuộc điều tra mức sống dân cư Việt Nam năm 2006 cho thấy, tỷ lệ khuyết tật của dân số từ 5 tuổi trở lên chiếm đến 15,3% trong tổng dân số, và mới đây nhất, kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009 cho thấy, tỷ lệ người khuyết tật ở độ tuổi từ 5 tuổi trở lên chiếm 7,8% dân số tương đương với 6,7 triệu người, trong đó có khoảng 5,8% là nữ giới và khoảng 75% tập trung ở khu vực nông thôn (Ban Điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam 2010; General Statistic Office 2010). So với các quốc gia trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương, Việt Nam đứng thứ 7 về tỷ lệ cao về người khuyết tật (The United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific 2010). Ở góc độ học vấn và đào tạo nghề của người khuyết tật, các nghiên cứu gần đây ở Việt Nam cho thấy đa số người khuyết tật có trình độ học vấn thấp và hầu như chưa được qua đào tạo nghề. Theo Điều tra tình hình thực hiện pháp lệnh người khuyết tật do Bộ Lao động Thương binh Xã hội thực hiện năm 2008, có tới 34.4% người khuyết tật mù chữ, tỷ lệ người khuyết tật mù chữ và chưa hoàn thành cấp tiểu học lên tới 51.6% trong khi tỷ lệ hoàn thành cấp trung học phổ thông rất thấp chỉ đạt 9.1%. Trong tổng số người khuyết tật chỉ có khoảng 21% người khuyết tật có khả năng lao động và 62% trong số họ đang tham gia các hoạt động kinh tế tạo thu nhập ở lĩnh vực chủ yếu là sản xuất nông nghiệp (Ban Điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam 2010, tr.9).
Việc đào tạo nghề cho người khuyết tật còn rất nhiều hạn chế, có tới 89.9% người khuyết tật chưa được đào tạo nghề, chỉ có 4.4% được đào tạo nghề ở bậc trung cấp, cao đẳng, đại học. Tình trạng này đã dẫn tới điều kiện sống của người khuyết tật phụ thuộc nhiều hơn vào gia đình, người thân và xã hội. Điều này cũng làm cho những rào cản về mặt xã hội đối với người khuyết tật càng trở nên xấu hơn.
Vấn đề dạy nghề và việc làm cho người khuyết tật luôn được đề cập trong hệ thống Luật và chính sách hiện hành của Việt Nam. Luật dạy nghề năm 2006 đã có quy định cụ thể về dạy nghề cho người khuyết tật (01 chương và 5 điều) (Quốc hội Việt Nam 2006). Các nội dung của Luật này nhằm hướng đến giúp người khuyết tật có năng lực thực hành nghề phù hợp với khả năng lao động để tự tạo việc làm hoặc tìm được việc làm phù hợp ổn định đời sống và hòa nhập cộng đồng. Ngoài các quy định về người học nghề là người khuyết tật, các quy định và các hình thức khuyến khích các cơ sở tổ chức dạy nghề cho người khuyết tật cũng được đề cập.
Bên cạnh Luật dạy nghề, Luật Lao động (1994) cũng dành một mục (4 điều) đề cập đến lao động là người tàn tật và khẳng định nhà nước bảo hộ quyền làm việc của người tàn tật và khuyến khích việc thu nhận, tạo việc làm cho người tàn tật (Quốc hội Việt Nam 1994).
Gần đây, Luật người khuyết tật được ban hành cũng đã có những quy định về vấn đề đào tạo nghề, tuyển dụng và sử dụng người lao động. Dự thảo Nghị định triển khai Luật này cũng đã cụ thể các quy định về vấn đề đào tạo nghề và sử dụng người lao động. Các quy định ở các văn bản pháp luật này đã hướng đến các mô hình tiếp cận mang tính xã hội nhiều hơn: Tạo các điều kiện về mặt môi trường làm việc, học nghề cho quá trình sử dụng nguồn lao động là người khuyết tật, cũng như có những quy định cụ thể về việc các doanh nghiệp tham gia xây dựng các nguồn quỹ cho người khuyết tật (nếu doanh nghiệp không tuyển dụng người lao động là khuyết tật). Việc xây dựng các nguồn quỹ đã có Quy định từ Pháp lệnh người tàn tật (1998) tuy nhiên vấn đề quản lý và vận hành quỹ chưa được xác định chủ thể nên thời gian qua quy định này mới chỉ tồn tại ở trên văn bản.
Với hệ thống luật pháp và các văn bản chính sách về vấn đề dạy nghề, học nghề cho người khuyết tật, theo đánh giá của Ban Điều phối các hoạt động trợ giúp người khuyết tật, công tác đào tạo nghề cho người khuyết tật đã được đổi mới và có nhiều kết quả về số lượng trung tâm tổ chức dạy nghề, số lượng người khuyết tật được đào tạo nghề (hiện có 256 cơ sở tổ chức dạy nghề cho người khuyết tật trong cả nước với 9441 người được đào tạo nghề năm 2010) (Ban Điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam 2010); việc tạo việc làm cũng đã có những kết quả được ghi nhận thông qua các hội chợ Việc làm của người khuyết tật (từ năm 2006).
Ở góc độ học nghề và việc làm cho người khuyết tật, nhìn ở bình diện chung nhất mặc dù đã có những thay đổi về số người được đào tào nghề và tạo việc làm, tuy nhiên nếu xét trên toàn bộ người khuyết tật thì vấn đề này vẫn chưa cải thiện được điều kiện sống của người khuyết tật nói chung. Việc đào tạo nghề mới chỉ hướng vào một số lượng đối tượng nhỏ cũng như việc tạo việc làm cho những người khuyết tật nói chung và người khuyết tật được đào tạo nghề nói riêng. Ở khía cạnh này có một số vấn đề còn cản trở: Nhận thức của người khuyết tật và gia đình về vấn đề đào tạo nghề còn chưa đầy đủ, nhu cầu học nghề của người khuyết tật còn thấp (ở đây có sự tồn tại của một mâu thuẫn chính là xã hội chưa tạo việc làm cho người khuyết tật nói chung nên chưa tạo được các nhu cầu hiện thân của người khuyết tật); hệ thống dạy nghề còn yếu-mới tập trung vào một số loại hình công việc và được tổ chức trong thời gian ngắn và chưa tạo được kỹ năng thiết yếu theo yêu cầu của thị trường lao động; công tác giới thiệu việc làm cho người khuyết tật chưa được quan tâm và mở rộng; số liệu về người khuyết tật nói chung và vấn đề tay nghề, đào tạo nghề còn chưa được cập nhật điều này có ảnh hưởng đến công việc triển khai đào tạo nghề và tạo cơ hội việc làm cho người khuyết tật.
Mặc dù có những chuyển biến mang tính tích cực như vậy, người khuyết tật ở Việt Nam đang gặp những khó khăn chung trong cuộc sống. Người khuyết tật hiện vẫn còn phải đối mặt với những vấn đề về thái độ, cơ hội tự phát triển và cơ hội để đóng góp khả năng cho sự phát triển xã hội. Vấn đề việc làm cho người khuyết tật đã được nhiều văn bản pháp luật, các chính sách đề cập nhưng hầu như chỉ dừng lại ở các định hướng, hoặc các chính sách hiện mới đang tập trung nhiều đến người khuyết tật mà chưa tạo những thay đổi về phía xã hội (trợ giúp cho các doanh nghiệp, người không khuyết tật làm việc cùng môi trường lao động, cơ sở hạ tầng như nhà xưởng, nhà ở, đường đi, giao thông…). Đẩy mạnh vấn đề việc làm cho người khuyết tật ngoài những chương trình định hướng giúp đỡ người khuyết tật được đào tạo nghề, cũng cần xây dựng các mô hình dịch vụ về thông tin việc làm, tư vấn quá trình học nghề, tìm việc làm, tham gia môi trường làm việc, các vấn đề phát sinh trong quá trình làm việc, bồi dưỡng và nâng cao tay nghề cho người khuyết tật và cả cho người không khuyết tật.
Đồng thời, việc xây dựng các chương trình, chính sách trợ giúp người khuyết tật cũng cần tiếp cận từ góc độ hòa nhập xã hội và nâng cao năng lực (giảm dần các mô hình chuyên biệt cho người khuyết tật, cần mở rộng các mô hình hòa nhập); các dịch vụ hướng đến giúp đỡ người khuyết tật không chỉ ở việc đào tạo, tìm việc làm mà còn ở cả giai đoạn làm việc và các vấn đề xung quanh của cuộc sống thường nhật (yêu cầu của các dịch vụ về công tác xã hội ở nơi làm việc, các mô hình tư vấn tâm lý, các hoạt động vui chơi, giải trí và xây dựng môi trường sống hòa nhập)./.
Tài liệu tham khảo
Australian Government 2008, The future of disability employment services in Australia, viewed 12 August 2011, <http://www.deewr.gov.au/Employment/Programs/DES/DESReview/Documents/FutureDESDiscussionPaper.pdf>.
Ban Điều phối các hoạt động hỗ trợ người tàn tật Việt Nam 2010, Báo cáo năm 2010 về hoạt động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam, Hà Nội, viewed 28 April 2011, <http://nccd.vn/attachments/204_BC%20thuong%20nien%20in.PDF>.
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội 2009, Báo cáo tổng kết tình hình thi hành Pháp lệnh về người tàn tật và các văn bản liên quan/ Report on implementing the Ordinance of PWD and related social policies, MOLISA, Hanoi.
Doyle, B 1995, Disability, Discrimination and Equal opportunities: A Comparative Study of the Employment Rights of Disabled Persons, Mansell, London.
Duckworth, S, Freeney, M & Parkinson, M 1996, Disability matters: Managing diversity at work, Lemos and Crane, London.
General Statistic Office 2010, The 2009 Vietnam population and housing census: Completed results, Statistical Publishing House, Hanoi.
Goss, D, Goss, F & Adam-Smith, D 2000, 'Disability and employment: A comparative critique of UK legislation', International Journal of Human Resource Management, vol. 11, no. 4, pp. 807-821.
International Labour Organisation 2006, Employment of People with Disabilities: A human rights approach (Asia), International Labour Office, Geneva.
International Labour Organisation & Asia Development Bank 2006, Core labor standards: Handbook, Asian Development Bank, Manila, Philipines.
Le Bach Duong, Khuat Thu Hong & Nguyen Duc Vinh 2008, People with disabilities in Vietnam: Findings from a social survey at Thai Binh, Quang Nam, Da Nang and Dong Nai, National Political Publishing House, Hanoi.
Oliver, M 1990, The politics of disablement, Macmillan Education, London.
Oliver, M 1996, Understanding disability: From theory to practice, Macmillan Press, London.
Phillips, J 2008, Disability support and services in Australia, Social Policy Section, updated 16/08/2008, viewed 20th March 2009, <http://www.aph.gov.au/library/pubs/BN/2007-08/DisabilitySupportServicesAustralia.htm>.
Quốc hội Việt Nam 2006, Luật dạy nghề, viewed 18 April 2010, <http://www.chinhphu.vn/portal/page?_pageid=578,33345598&_dad=portal&_schema=PORTAL&docid=29575>.
Quốc hội Việt Nam 1994, Luật Lao động, viewed 12 March 2011, <www.chinhphu.vn/vanbanpq/lawdocs/L35QH.rtf?id=2053>.
Social Policy Research Centre 2008, Disability Policy – Sources for Evidence, Social Policy Research Centre, New South Wales University, Sydney, viewed 20 March 2011, <http://www.sprc.unsw.edu.au/media/File/Report15_08_DisabilityPolicy.pdf>.
The United Nations 2006, Convention on the Rights of Persons with Disabilities, The United Nations, viewed 12th January 2009, <http://www.un.org/disabilities/convention/conventionfull.shtml>.
The United Nations 2008, History of disability and the United Nations, viewed 10 June 2008, <http://www.un.org/esa/socdev/enable/history.htm>.
The United Nations 1948, Universal declaration of human rights, viewed 19th November 2008 <http://www.un.org/Overview/rights.html>.
The United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific 2010, Disability at glance 2010: A profile of 36 countries and areas in Asia and the Pacific, viewed 02 April 20101, <http://www.unescap.org/sdd/publications/Disability/Disability-at-a-Glance-2010.pdf>.
Thornton, P & Lunt, N 1997, Employment policies for disabled people in eighteen countries : a review, viewed 10 August 2011, <http://digitalcommons.ilr.cornell.edu/gladnetcollect/158/>.
Vietnam National Assembly 2010, Law on People with disabilities, Hanoi, viewed 10 March 2011, <http://vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=24406&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText=>.
World Health Organisation & The World Bank 2011, World Report on Disability, World Health Organisation Press, Geneva.
* Trần Văn Kham, ThS, Trường ĐH KHXH&NV-ĐHQG Hà Nội. Hiện là NCS tại Đại học Nam Úc, Úc.
Email: travk002@mymail.unisa.edu.au hoặc khamtv@ussh.edu.vn
1 Comments
có rất nhiều bạn kt hiện nay học xong rất khó xin việc
ReplyDelete